Thiết kế nhận diện thương hiệu

Hệ thống nhận diện thương hiệu là sự diễn đạt bản sắc của một công ty bằng hình ảnh thông qua việc sử dụng văn từ và các biểu tượng.

Thiết kế mẫu mã bao bì sản phẩm

Vậy liệu sẽ như thế nào nếu như một thương hiệu quen thuộc được thay đổi hoàn toàn thiết kế về bao bì?

Thiết kế profile công ty

Profile công ty thường được thiết kế dưới dạng một cuốn sách nhỏ, dung lượng từ 16 – 30 trang với mục đích giới thiệu tóm tắt về công ty, lĩnh vực kinh doanh

Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Thiết kế thương hiệu: có phải tìm một thị trường mục tiêu?

Trong quá khứ, một nhãn hiệu thường nhắm đến 1 nhóm đối tượng mục tiêu phân theo các tiêu chí dân số học để phản ánh thế giới như "phụ nữ từ 21 tới 34 tuổi sở hữu ít nhất một con và có thu nhập gia đình hằng năm trung bình là 25,000 USD".

>>>Dịch vụ: thiet ke profile

Sau ấy, người ta bổ sung các tiêu chí về tâm lý vào định nghĩa về nhóm đối tượng của nhãn hiệu như "nhóm thích đổi mới",…. Đây là phương pháp để phân biệt đối tượng mang mức yếu tố rõ hơn dù về thời trang sống của họ thoạt trông mang vẻ là giống nhau.

Dù bây giờ, định nghĩa nhãn hàng "phụ nữ từ 21 tới 34" tuổi sở hữu vẻ là 1 nhóm cực kỳ rộng to nhưng trong quá khứ thì nó lại hoàn toàn xác định được. Lý do là vì trong quá khứ, xã hội và văn hóa thuần nhất hơn, con người sống gần gũi mang nhau hơn, cùng chia sẽ các giá trị chung của cùng đồng. Do cấu trúc văn hóa xã hội hơi ổn định cần toàn bộ người dường như có lối sống gần gần giống nhau. Thời ấy, tất cả người hầu như ko biết tới các khái niệm như khiến đa dạng nghề cộng lúc, học tập suốt đời, hay gia đình hạt nhân. mẫu mà tất cả người khiến là rẻ nghiệp đại học, kiếm 1 việc ổn định, lập gia đình, sinh con, làm cho việc để tích lũy, về hưu, và cuối cộng là chết. Từ đó, ta hoàn toàn có thể dự đoán tính bí quyết của một nhóm đối tượng nào ấy. bởi thế, khái niệm mục tiêu mới có ý nghĩa.

Hơn nữa, trong quá khứ, các cái thông tin khá là giảm thiểu. Người ta tiếp xúc sở hữu thế giới thông qua ti vi và báo chí. những công ty cũng hoạt động theo mô thức hơi đơn thuần sở hữu các liên kết dọc và khả năng chủ động cao trong công việc ra đời của bản thân. Do những đặc biệt này của xã hội, văn hóa, và thông tin, doanh nghiệp với thể dễ dàng tập trung vào 1 nhóm đối tượng mục tiêu và tiến hành những chiến lược nhãn hàng như ta đã biết.

>>>Tin tức: thiết kế catalogue chuyên nghiệp

Tuy nhiên, bây giờ mọi việc đã khác. những thức người ta sống, giao tiếp, và tốc độ cuộc sống đã thay đổi chóng mặt. các công ty cũng được vận hành theo cách khác có các mối dây shop phức tạp. Trong thế giới luôn thay đổi và phức tạp như vậy, ta khó có thể dự báo được điều gì và khái niệm đối tượng mục tiêu cũng sẽ vươn lên là không ổn định. do đó, thành lập, theo đấy, cũng cần được hiểu theo bí quyết khác. ngày nay, xây dựng thương hiệu là nên nhằm đến một tương lai chứ không phải là 1 đối tượng vì đối tượng mục tiêu luôn thay đổi và khó, ví như không muốn nhắc là, không xác định được.

nhãn hàng nên mang tính lan tỏa đa dạng hơn. Nó ko những mang thể ưa thích mang 1 xã hội đa dạng sở hữu đa dạng nhóm tương tác khác nhau đến nhãn hiệu. nhãn hàng hiện nay tồn tại trong 1 chuỗi những quan hệ phức tạp từ nhà chế tạo, phân phối, đối tác, các bạn, nhân viên, nhà đầu tư, và những nhà phân tích thị trường. Cấu trúc đơn thuần "một nhãn hàng dành cho một đối tượng mục tiêu" đã được thay thế bằng 1 cấu trúc linh hoạt, và đôi khi là đa nhãn hiệu để với thể thỏa mãn những nhóm tương tác như ta đã nêu mà vẫn dễ hiểu cho công chúng. Linh hoạt để sở hữu thể mở rộng ra các đối tượng khác nhau, nhưng đồng thời vẫn sắp gũi mang cá nhân.

lúc bạn sắm 1 điện thoại di động, bạn đang mua sản phẩm của Samsung, hay bạn đang sắm dịch vụ bán hàng của Thế giới di động. khi bạn sắm một PC, bạn có chú ý thương hiệu là Compaq, Dell, HP, hay Sony? Hay bạn chú ý đến bộ vi xử lý trong máy là của Intel hay AMD hay Cyrix? lúc bạn vận hành một công ty, bạn chú ý tới hình ảnh công ty trong mắt người mua hay hình ảnh công ty trong mắt nhà đầu tư, nhà phân tích tài chính, hay giới truyền thông?

Câu trả lời là bạn quan tâm đến "tất cả những điều trên". ấy chính là minh họa cho ý kiến thương hiệu hiện tại càng ngày càng trở thành đa chiều, vô hình, và sở hữu tính cảm xúc phổ biến hơn. do vậy, thành lập cũng cần bỏ bớt tính cứng nói như trong quá khứ mà bắt buộc tạo tính linh hoạt và khả năng lan tỏa đa dạng hơn.

Những điều nên và không cần khi đặt tên nhãn hiệu

Đặt tên là 1 trò chơi xếp chữ chẳng phải đơn giản. có quá nhiều quy luật và điều kiện bắt buộc thoả mãn để tạo ra 1 từ lý tưởng trong vỏn vẹn vài chữ mẫu. Thế nhưng, sau bao nhiêu công sức tìm tòi, nghiên cứu, chắt lọc, đôi khi bạn vẫn thất bại ngay từ vòng đặt tên.

http://www.dna.com.vn/folder_news/190611 dat ten thuong hieu.jpg

>>>Xem thêm: thiết kế catalogue chuyên nghiệp

Hãy tham khảo 10 mẹo dưới đây và bạn sẽ sở hữu thể vượt qua được thử thách này.

một. không nên chọn tên quá hiển nhiên. Ở Anh, " Sterling " được xem là 1 từ "đẹp" vì nó vừa chỉ đơn vị tiền tệ căn bản của Anh lại vừa mang nghĩa là "chất lượng thượng hạng" . Và cũng chính vì vậy mà với đến hơn 700 doanh nghiệp Anh quốc dùng " Sterling " khiến cho tên cho mình.

2. phải cân đề cập ngữ cảnh. Ví dụ, hãy hình dung tình huống trường hợp tên sản phẩm hoặc tên công ty bạn chọn kết thúc bằng âm "-is". Tỉ phú bất động sản Donald Trump từng giễu chiếc tên Allegis "nghe cứ như 1 vật dụng bệnh nhà giàu nào đó." đó là bởi vì mang đa số mẫu bệnh kết thúc bằng "-is" như arthritis (viêm khớp), gingivitis (viêm lợi), encephalitis (viêm não) và syphilis (giang mai). Nhưng với vẻ như hai hãng Rhone-Poulenc và Hoechst đã ko màng tới điều này lúc sáp nhập mang nhau để tạo buộc phải tập đoàn khoa học sức khỏe to khổng lồ hiện nay với tên gọi Aventis .

3. bắt buộc nhớ rằng "ngắn gọn mà súc tích". Bib-Label Lithiated Lemon-Lime Soda là 1 dòng tên lạ đời và hết sức trúc trắc. 7-Up lại ngắn gọn và hay hơn. Dr. Richardson's Croup and Pneumonia CureSalve (thuốc chữa bệnh viêm thanh quản và viêm phổi của bác sĩ Richardson) chỉ được quý khách để mắt đến khi họ đổi tên sản phẩm thành Vicks VapoRub .

4. bắt buộc sàng lọc kỹ những lựa tìm. 9 trong số 10 dòng tên được tạo ra bởi bất kỳ phương thức nào thường trùng sở hữu các tên đã được đăng ký. Điều này không có gì lạ. khi Coca-Cola chuẩn bị tung ra nước ngọt dành cho người ăn kiêng đầu tiên vào năm 1963, người ta đã lập trình trên máy IBM Model 1401 để tạo cần các từ ghép 4 chữ loại bao gồm 1 nguyên âm. Kết quả là mang 250,000 từ thu được và 600 từ qua được vòng sơ tuyển. Nhưng cuối cộng chỉ có 24 tên, chưa đến 4% là ko trùng có các thương hiệu với sẵn. (Trong ấy với Tabb, sau này được rút gọn thành Tab.)

5. Đừng xem thường giá trị của tên bạn. Tên tuổi với thể hàm đựng giá trị thương hiệu lớn lớn. Wells Fargo Bank từng sáp nhập có 1 ngân hàng to hơn là American Trust Bank Company, nhưng nhờ sáng suốt, họ đã quyết định giữ lại cái tên "nhỏ" hơn và cuối cùng thành công nhờ giá trị thương hiệu của chính loại tên nhỏ bé này.

6. cần tận dụng các gì có sẵn. Đôi lúc một chiến lược đặt tên đúng phải sự sáng suốt, tối ưu hơn là cam đảm. Anheuser-Busch quyết định "thoát ly" khỏi doanh nghiệp bánh to Campbell Taggart Inc. mà họ sắm lại từ năm 1982. Muốn chọn 1 dòng tên với ý nghĩa hơn, ban quản lý mới đã quyết định tìm tên của 1 trong những nhãn hiệu bánh mì sở hữu sẵn, sửa đổi đôi chút và biến nó thành tên cho cả công ty: Earthgrains Company đã ra đời như thế.

7. Đừng theo quá sát nghĩa đen của tên. khách hàng thường xem nhẹ tới nghĩa đen. ví như có, thể nào họ cũng nghĩ rằng xe khá thuê của Rent A Wreck (Thuê Xế Xẹp) thật sự là xe dỏm. Hay chuyên gia môi giới của doanh nghiệp bất động sản Century 21 (Thế kỷ 21) chắc chẳng bán được căn nhà nào ở trong thế kỷ 20.

>>>Tin tức: thiet ke bao bi

8. Đừng cho rằng tên tuổi tạo phải thị trường. Lean Cuisine là 1 chiếc tên khá bảnh cho dòng sản phẩm món khai vị đông lạnh, nhưng nhãn hàng này thành công bởi vì người dùng đã sẵn sàng đón nhận các sản phẩm ẩm thực tốt với hàm lượng calorie tốt.

9. cần thể hiện cảm xúc. Chỉ tuyệt vời thôi vẫn chưa đủ để tạo phải 1 loại tên hay. Hãy để trực giác mách bảo bạn lúc tìm tên. Sears đã có thể chọn tên Reliable cho sản phẩm bình ắc quy xe hơi mà họ bán (rất tối ưu, thực tế nhưng chẳng có gì đặc biệt), thay vào ấy họ quyết định chọn DieHard một dòng tên vừa nghe đã thấy ngay sự mạnh mẽ và thời trang hơn hẳn.

10. Cuối cộng, đừng quên đọc to tên mình. ngày nay, người ta thường kêu hoặc kể đến tên nhiều hơn là viết ra. Trí óc thường tự động biến từ ngữ thành âm thanh, bởi thế, đừng quên chọn các từ dễ đọc, và êm tai.

Thời điểm nào bạn nên tạo nhãn hiệu thiết bị hai?

Mỗi lúc xu thế bắt mắt hoặc khoa học thay đổi, một thương hiệu, dù to hay nhỏ, đều đối mặt với lựa chọn cạnh tranh. cần mở rộng sang kỹ thuật hoặc thiết kế mới hay cần tạo hẳn một thương hiệu mới? lúc xu thế thay đổi rõ rệt, câu trả lời sáng suốt hầu như luôn là "tung 1 thương hiệu mới".

>>>Xem thêm: thiet ke tem nhan san pham

- khi xu thế diện thường phục lấn vào công sở, Levi Strauss ra mắt thương hiệu Dockers, và đến nay, thương hiệu này đã nổi tiếng trên toàn thế giới có giá trị hàng tỉ đô.

- Trước thành công của Mercedes-Benz và BMW, Toyota giới thiệu mẫu xe Lexus. hiện nay, đây là mẫu xe hạng sang bán phổ biến nhất ở thị trường Mỹ.

- Thành công của Costco làm cho Wal-Mart mở thêm Sam's Club và nhanh chóng phát triển thành đối thủ cạnh tranh đáng gờm của Costco.

các giả dụ tung ra thương hiệu mới thành công chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thông thường, phần lớn nhà tiếp thị thường thích mở rộng thương hiệu đã có sang 1 lĩnh vực sản phẩm mới. Nhưng kết quả thường không như mong muốn. một số ví dụ có thể kể tới như:

- IBM thất bại lúc cố mở rộng từ vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực máy chủ sang thị trường máy tính cá nhân.

- Xerox thất bại lúc cố mở rộng từ máy photocopy sang lĩnh vực máy tính.

- Polaroid thất bại lúc cố thoát khỏi lĩnh vực máy chụp ảnh lấy liền.

- Kodak thất bại lúc cố lặp lại thành công trong lĩnh vực máy chụp ảnh từ phim sở hữu máy ảnh kỹ thuật số.

các doanh nghiệp e dè không tạo nhãn hiệu mới thường phải trả giá đắt hơn cho tầm nhìn hạn hẹp của mình. Visa U.S.A và MasterCard International là nếu điển hình. đến nay, cả hai doanh nghiệp thẻ tín dụng (credit card) này đã tốn các 3 tỉ đô và vẫn còn nhiều hao hụt đang chờ họ trong tương lai.

>>>Dịch vụ: thiet ke bao bi san pham

phổ biến năm trước, Visa và MasterCard đã quyết định lấn sang sang thị trường thẻ ghi nợ (debit card). mang thể nói credit card và debit card là hai đối thủ "không đội trời chung". Thế nhưng cả Visa và MasterCard đều quyết định dùng cộng 1 tên thương hiệu cho cả 2 dòng thẻ. Visa credit card và Visa debit card. Master cũng thế. Để vấn đề thêm rắc rối, cả hai công ty đều buộc những nhà bán lẻ "phải chấp nhận đa số những chiếc thẻ." nói cách khác, ví như 1 nhà hàng chấp nhận thanh toán bằng thẻ Visa credit, họ cũng bắt buộc chấp nhận nốt Visa debit.

Kế tới, cả hai doanh nghiệp đều sử dụng cộng hệ thống chữ ký cho cả 2 dòng thẻ, buộc nhà bán lẻ cũng phải trả phí cao từ 5-10 lần thông thường nếu người mua sử dụng mạng thẻ debit khác sở hữu hệ thống số PIN như Star, Pulse, hay NYCE.

Trong vụ dàn xếp chống độc quyền lớn nhất lịch sử, Visa U.S.A chấp nhận chi 2 tỉ đô và MasterCard trả 1 tỉ đô cho nhóm nhà bán lẻ tập hợp bởi Wal-Mart bởi chính sách "phải chấp nhận toàn bộ dòng thẻ" đề ra ở trên.

Tại sao Visa và MasterCard lại ko tung ra nhãn hàng thẻ debit riêng? 1 nhà quản lý của Visa lý giải rằng đây là chuyện "cái trứng và con rận". Visa phải tạo một nhãn hiệu mới hoàn toàn, chưa từng được bất kỳ ngân hàng nào phát hành hoặc nhà bán lẻ nào chấp nhận. "Làm vậy thì được gì?"

khiến vậy sở hữu thể tiết kiệm được 3 tỉ. Nhưng quan trọng hơn cả vụ "lỗ vốn" 3 tỉ này chính là hệ quả lâu dài của chiến lược "chấp nhận toàn bộ cái thẻ". khi kết hợp hệ thống thẻ debit và credit, Visa (và cả MasterCard) tự khép mình vào phương thức xử lý các thanh toán bằng thẻ debit chậm và ít bảo mật hơn.

Thật ra, MasterCard từng thử chiến lược tung nhãn hiệu mới, và họ đã giới thiệu thẻ Maestro, theo hệ thống số PIN, nhưng Maestro lại thua thẻ debit theo hệ thống chữ ký của Visa, bởi vậy MasterCard vội đổi hướng và chạy theo Visa. Thật đáng tiếc, vì chỉ nên vững tin và kiên trì hơn mang chiến lược riêng của mình, MasterCard đã với thể giàu hơn đối thủ Visa hàng tỉ đô mang sản phẩm thẻ debit theo hệ thống PIN này.

Tương tự các bài toán tiếp thị khác, tình huống thẻ debit cũng phức tạp. khiến cho sao bạn mang thể tạo được một sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của hầu hết các bên, cả người tiêu dùng, nhà bán lẻ, ngân hàng lẫn hệ thống thẻ? ko đơn giản chút nào.

Đây là khi tư duy khái niệm phát huy sức mạnh. các ngành nghề thường tăng trưởng theo xu thế phân kỳ, thay vì hội tụ. mang thể chúng ta ko biết sự phân kỳ sẽ diễn ra như thế nào, bao giờ hoặc nơi đâu, nhưng chúng ta mang thể tin chắc rằng sau cộng nó sẽ diễn ra. Hai lĩnh vực khác nhau, như thẻ debit và credit, sẽ ngày càng khác biệt hơn và đây là sự thật không thể chối cãi. Cố ép cả hai vào cộng một thương hiệu là phấn đấu vô nghĩa.

Đừng bao giờ chống lại xu hướng. Thời gian sẽ luôn tạo thêm "đất" cho những nhãn hàng mới. nếu bạn ko tạo một nhãn hàng mới, bạn sẽ sớm hối tiếc khi một vài đối thủ sử dụng chiến lược này.

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

Lợi thế của nhãn hàng bắt đầu từ trải nghiệm của quý khách

một số người thường đánh đồng ra đời sở hữu quảng cáo. Dù quảng cáo thật sự có vai trò quan trọng trong việc tạo buộc phải giá trị thương hiệu, nhưng chính trải nghiệm mới là yếu tố quyết định thành công lâu dài.

>>>Xem thêm: thiet ke profile

Lòng trung thành được tạo dựng trên nền tảng trải nghiệm tích lũy của người mua mang nhãn hàng, và các thương hiệu mạnh củng cố vị thế của mình tại mọi điểm tiếp xúc mang người dùng.

Tầm quan trọng của việc thực hiện cam kết tiếp thị

PR tạo buộc phải kỳ vọng cho nhãn hiệu. Thành công sẽ dễ đến hơn khi trải nghiệm nhãn hiệu khớp mang những gì được hứa hẹn lúc tiếp thị. Tùy vào việc kết hợp trải nghiệm và cam kết, một trải nghiệm nhãn hàng rẻ sở hữu thể được gia nâng cao còn những trải nghiệm khó chịu cũng với thể được nhân đôi.

Chiến lược tiếp thị của Nissan ở Mỹ là 1 ví dụ điển hình khi cam kết và trải nghiệm nhãn hàng tương đồng sở hữu nhau. Trong suốt 6 năm, Nissan không dừng cải thiện phương pháp quý khách cảm nhận về xe của mình có chiến dịch "Shift". Thông điệp đánh động vào tâm lý người mua và được tung ra cùng khi với các mẫu xe được cải tiến như Altima. những tìm mọi cách truyền thông cuối cộng cũng tạo được ấn tượng cho dòng mã và cảm nhận về xe Nissan, giúp tạo nét khác biệt sở hữu các nhãn hàng khác. Và kết quả là doanh số của Nissan US tiếp tục tăng trong năm 2007 và hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển trong tương lai.

Mỗi thương hiệu phải cố gắng đem đến trải nghiệm tuyệt vời

khi đề cập đến trải nghiệm thương hiệu, người ta thường nghĩ đến cái hình dịch vụ. Nhưng trái lại, chính dịch vụ thường làm cho giảm trải nghiệm người dùng, thay vì tăng. không có gì làm cho lòng trung thành của quý khách lung lay nhanh hơn 1 hệ thống dẫu được xây dựng để giúp tiết kiệm giá tiền cho doanh nghiệp nhưng không đáp ứng được nhu cầu dịch vụ của người mua. những ai đã từng cảm thấy "bất lực" trước hệ thống chăm sóc người dùng tự động của những ngân hàng, hãng hàng không hay nhà sản xuất dịch vụ viễn thông to cũng thấm thía điều này.

>>>Tin tức: bộ nhận diện thương hiệu

mang lại 1 trải nghiệm nhãn hiệu hoàn hảo còn giúp phân biệt nhãn hiệu có vô vàn những nhãn hàng khác trong cộng ngành. Lĩnh vực dầu nhớt động cơ là 1 ví dụ rõ ràng, vì người lái xe thường ko đặc thù ưu ái một thương hiệu nào cả. Mức độ gắn kết quá lỏng lẻo dễ khiến cho quý khách đổi từ sản phẩm này sang sản phẩm khác chỉ vì giá cả hoặc tình trạng còn/hết hàng. Để tạo lòng trung thành nơi người mua, những nhãn hàng này buộc phải cố gắng khiến hài lòng quý khách ko chỉ bằng việc đáp ứng đề nghị căn bản về sản phẩm, mà còn bằng những trải nghiệm bất ngờ, độc đáo khác.

Bảo hiểm là một lĩnh vực từng được thay đổi bởi trải nghiệm thương hiệu. Dù việc lựa chọn 1 công ty bảo hiểm vẫn tùy thuộc đông đảo vào giá cả, nhưng một số nhà phân phối dịch vụ đã với tìm mọi cách biến đổi trải nghiệm người mua bằng cách để nhân viên đích thân đảm nhiệm dịch vụ chăm sóc khách hàng, thay vì sử dụng máy móc tự động, thậm chí một số công ty còn để khách hàng tự do so sánh giá cả dịch vụ giữa các nhà phân phối với nhau.

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Tiềm năng và thách thức của doanh nghiệp nhận diện nhãn hàng

Chúng ta trông đợi điều gì ?

Virgin Atlantic là 1 ví dụ rất thú vị. Hãng hàng ko này không có gì khác so mang những đối thủ khó khăn. Máy bay cũng bình thường, chổ ngồi tiêu chuẩn, thức ăn cũng ko đặc trưng hơn những hãng khác, nhưng hãng luôn tìm bí quyết tạo ra sự khác biệt và ko 1 điều nào liên quan đến thuận tiện lõi của dịch vụ hàng không.

http://www.dna.com.vn/folder_news/200411 ky nang tiep thi.jpg

>>>Xem thêm: thiết kế tem nhãn sản phẩm

Kết quả là Virgin Atlantic buôn bán thành công trong rộng rãi năm liền và chiếm thị phần từ British Airway nhưng British Airway lại không bắt chước vì theo British Airway, các gì Virgin Atlantic đang khiến là khôi hài. Lãnh đạo British Airway sẽ nghĩ "Massage trên chuyến bay à? Thật khôi hài! quý khách nào lại thích thế chứ? Chỉ với mấy người lập dị mới thích vậy. Cứ để Virgin Atlantic chuyên dụng cho họ"

một ví dụ khác là hãng đồng hồ Swatch. Họ coi mặt đồng hồ và dây đeo là 1 lĩnh vực thiết kế. Điều này với liên quan gì tới thuận tiện lõi của đồng hồ không? Chính xác là ko và cũng không ai mang thể bắt chước được.

giả dụ về thị trường điện thoại di động

Đôi lúc, 1 số giá trị không thuộc thuận tiện lõi sẽ dần dần trở nên lợi ích lõi. Điều này đã xảy ra có Nokia. Nokia thực hiện khác biệt hoá không đơn thuần là thực hiện ngoại trừ lợi ích lõi mà dựa trên phân tích sâu sắc về nhu cầu của quý khách trong tương lai. Nokia cho rằng, càng ngày điện thoại di động sẽ càng đa dạng và không thể thiếu trong cuộc sống, đến mức nó như trang phục hàng ngày của đa số người. Và điện thoại di động sẽ không đơn giản là để liên lạc nữa mà còn là 1 món trang sức, 1 món thời trang. Trong khi các đối thủ như Motorola đầu tư nâng cấp tính năng công nghệ của điện thoại, Nokia lại đầu tư vào tính năng bắt mắt ví dụ như thiết kế đẹp hơn, nhiều màu sắc để người mua lựa tìm, nhiều tính năng giải trí….Kết quả là Nokia đã dẫn đầu thị trường từ việc khác biệt hoá mà ban đầu tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến sản phẩm mà họ marketing.

khi tính năng kỹ thuật của điện thoại di động của các hãng trở thành tương đương nhau, xây dựng sẽ là trọng tâm cạnh tranh. Samsung lại đang tấn công Nokia bằng chính triết lí của Nokia. vừa rồi, Samsung đã hợp tác có Tạp chí Vogue và nhà thiết kế Diana von Furstenberg để phong cách hoá điện thoại di động. Tại thời điểm bài viết này, thị phần của Nokia vẫn gấp đôi Motorola và Samsung vẫn theo sau họ. Tuy nhiên, Nokia đã ko còn lợi thế về sự khác biệt.

hiện tại, Nokia đang tìm phương bí quyết khác biệt hoá mới nhưng vẫn chưa thành công. Họ vẫn dẫn đầu thị trường nhờ ý tưởng điện thoại là trung tâm giải trí dựa trên kỹ thuật 3G. Tuy nhiên, điện thoại chụp hình và điện thoại 3G càng ngày càng bị khó khăn quyết liệt bởi đối thủ khó khăn do lợi thế của sự khác biệt ko còn.

Bạn với thể kể phần lớn công ty đã thành công và dẫn đầu thị trường nhờ khác biệt hoá bên cạnh phại vi tiện dụng lõi. Chúng ta tạm không tranh luận "thế nào là nhiều" vì chúng ta biết rằng số đông công ty ko bao giờ dẫn đầu thị trường và họ cũng không cần khiến điều ấy. trường hợp bạn đang kinh doanh trong môi trường khó khăn khốc liệt, khác biệt hoá không tính tiện dụng lõi là cách rẻ nhất mà bạn thuyết phục một nhóm người mua sử dụng dịch vụ của bạn 1 cách lâu dài và tạo lợi thế độc quyền trong phạm vi hẹp.

>>>Dịch vụ: thiet ke bao bi

Mở ra cơ hội

Chúng ta không tranh luận rằng khác biệt hoá trong phạm vi thuận tiện lõi là không rẻ. Dĩ nhiên ta luôn thực hiện điều đó. Bạn sẽ vẫn tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua khác biệt hoá trong 1 khoảng thời gian lúc mà những đối thủ chưa bắt chước được chiến lược của mình. Đối sở hữu 1 số người, khoảng thời gian này đủ để họ trở thành tỉ phú như Micheal Dell. Dell đã thay đổi phương pháp bán máy tính. Theo thời gian, máy tính sẽ được chuẩn hoá và người ta mang thể mua máy tính qua điện thoại và sau này là internet. Vì chắc chắn là xu hướng đó sẽ tới, nên Dell đã đi trước 1 bước, tiến hành bán máy tính theo phương pháp thuận lợi nhất cho quý khách. đấy ko phải là khác biệt hoá ngoài tiện lợi lõi. Dell chỉ đi trước xu hướng chung một bước. hiện nay, đa số người đều mua bán máy tính theo phương pháp trên, nhưng ở thời của Dell, ý tưởng này là một ý tưởng hoàn hảo và đã biến ông thành một trong những người giàu nhất thế giới.

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

Target Marketing: buôn bán mục tiêu

buôn bán mục tiêu là việc lớn mạnh phối thức tiếp thị riêng cho một hoặc rộng rãi phân khúc thị trường. kinh doanh mục tiêu trái ngược mang kinh doanh đại trà, là hình thức tiếp thị một sản phẩm cho đa số thị trường.

>>>Xem thêm: thiet ke profile

Hai điểm quan trọng khi lựa tìm phân khúc thị trường mục tiêu là độ hấp dẫn của thị trường và mức độ yêu thích của phân khúc sở hữu mục tiêu, nguồn lực hay năng lực của công ty.

Sự hấp dẫn của phân khúc thị trường mục tiêu

1 số tiêu chí để đo mức độ hấp dẫn của một phân khúc thị trường là:

- Độ lớn của phân khúc (số lượng người dùng hay số lượng sản phẩm tiêu thụ)

- Mức độ phát triển của phân khúc.

- Mức độ khó khăn trong phân khúc.

- Mức độ trung thành thương hiệu trong phân khúc.

- Mức mức giá tiếp thị ước tính để thâm nhập phân khúc

- Tỉ lệ thị phần thiết yếu để đạt điểm điểm hòa vốn.

- Tiềm năng bán hàng tại phân khúc này

- Tỉ lệ lợi nhuận biên kỳ vọng tại phân khúc này.

Nghiên cứu thị trường là phương pháp để thu thập được những cái thông tin này. Ví dụ, thông qua việc thấu hiểu được ý định sắm mua, số lượng sản phẩm dùng, cách thức mua sản phẩm hay thời điểm mua sản phẩm… thì công ty sở hữu thể ước lượng được tiềm năng thị trường cũng như doanh số kỳ vọng của doanh nghiệp.

mang 1 điểm lưu ý là độ to của phân khúc thị trường, với đa dạng phân khúc lớn ko mang nghĩa là doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn lúc thâm nhập. Thông thường các phân khúc thị trường to thì sẽ với rộng rãi đối thủ khó khăn hơn, mức độ cạnh tranh về giá sẽ to dẫn tới tỉ lệ lợi nhuận biên trên đơn vị sản phẩm sẽ không cao. vì thế, công ty cần chọn phân khúc nhỏ sở hữu mức độ lợi nhuận cao hơn.

Sự thích hợp của phân khúc thị trường với công ty

một phân khúc thị trường hiệu quả còn được đánh giá qua mức độ thích hợp của phân khúc mang các mục tiêu, chiến lược hay nguồn lực kinh doanh của công ty. một số khía cạnh dùng để đánh giá như:

- Liệu doanh nghiệp mang thể đem đến những sản phẩm vượt trội trong phân khúc này.

- Liệu lúc dùng cho phân khúc này mang ảnh hưởng gì đến hình ảnh của toàn doanh nghiệp.

- Liệu có buộc phải nên thiết lập kênh phân phối mới cho phân khúc này.

- Liệu nguồn vật lực và tài lực của công ty mang đảm bảo cho việc thâm nhập phân khúc này.

- một phân khúc càng phù hợp sở hữu công ty, với mức độ hấp dẫn thị trường cao thì sẽ hứa hẹn sẽ đem đến đa dạng lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.

những chiến lược lựa tìm phân khúc thị trường mục tiêu

có phổ biến chiến lược lựa chọn phân khúc thị trường mục tiêu khác nhau. công ty mang thể tham khảo các chiến lược sau:

một phân khúc thị trường (Single Segment): chỉ hoạt động trong một phân khúc thị trường duy nhất bằng 1 phối thức tiếp thị duy nhất. Chiến lược này thường thích hợp cho các doanh nghiệp nhỏ sở hữu nguồn lực hạn hẹp.

>>>Dịch vụ: thiet ke bao bi san pham

1 số phân khúc tìm lọc (Selective Specialization): chọn lọc một số phân khúc thị trường để hoạt động, các bí quyết phối thức tiếp thị khác nhau sẽ được tiêu dùng cho những phân khúc thị trường khác nhau. Về mặt sản phẩm thì có thể giống nhau hoàn toàn hoặc khác nhau chút ít, trong một số nếu chỉ có kênh phân phối và thông điệp tiếp thị là khác nhau.

Chuyên môn hóa sản phẩm (product specialiation): công ty chỉ tập trung vào một sản phẩm duy nhất và hiệu chỉnh tính năng cho ưng ý từng phân khúc thị trường mục tiêu.

Chuyên môn hóa thị trường (market specialiation): công ty chỉ tập trung vào một thị trường mục tiêu duy nhất và phát triển đa dạng sản phẩm khác nhau để dùng cho.

Bao phủ toàn thị trường (Full market coverage): doanh nghiệp hướng tới việc phục vụ toàn thị trường. Chiến lược này sở hữu thể dùng qua việc tiêu dùng một chiến lược kinh doanh cho mọi thị trường (marketing đại trà) hoặc phối thức tiếp thị khác nhau cho từng phân khúc thị trường.

Dưới đây là biểu đồ minh họa 5 chiến lược lựa tìm thị trường mục tiêu thông qua việc phân chia ra 3 phân khúc thị trường S1, S2, S3 và 3 sản phẩm P1, P2, P3.

lúc gia nhập một phân khúc thị trường, doanh nghiệp cần ưu tiên lựa tìm phân khúc nào hấp dẫn và phù hợp mang năng lực của mình nhất. khi đã mang chỗ đứng trên thị trường, công ty sở hữu thể mở rộng thị trường bằng phương pháp áp dụng chiến lược tập trung sản phẩm (Product specialization) qua việc sản xuất sản phẩm sở hữu tính năng khác nhau đáp ứng các phân khúc khác nhau, hoặc tiêu dùng chiến lược tập trung vào thị trường bằng việc cung ứng phổ biến sản phẩm khác nhau cho cộng một thị trường.

Xây dựng thương hiệu: mang cần thời gian?

mọi người thường mang suy nghĩ rằng có mặt trên thị trường mạnh cần mất 1 thời gian dài, tính bằng đa dạng năm ròng. Suy nghĩ này càng được củng cố khi nó được đưa vào những giáo trình trong các trường đại học marketing.

http://www.dna.com.vn/folder_news/010711 thoi gian.jpg

>>>Xem thêm: thiết kế catalogue chuyên nghiệp

Người ta thường lấy những ví dụ về những nhãn hiệu nổi tiếng như Ivory Soap sở hữu tuổi đời 125 năm; Tide mang tuổi đời 50; Crest thì 40. thương hiệu nức danh như Apple sở hữu tuổi đời 20 thì được coi là trẻ và hiếm hoi trong thế giới thương hiệu nức danh. Điều đáng lưu ý là Steve Jobs và cộng sự hoàn thành việc có mặt trên thị trường Apple thực sự chỉ trong vài năm đầu khởi nghiệp khi họ cho ra mắt mẫu máy Macintosh năm 1984. nếu nhìn kỹ hơn, ta sẽ thấy 1 loạt những ví dụ khác về sự lớn mạnh cực nhanh của một số nhãn hàng. các năm 1980, American Online được 80% dân cư ở Mỹ nói đến lúc nói về thư điện tử. Tuy nhiên, chỉ trong 1 vài năm, Yahoo! đã là nhãn hiệu đầu tiên người ta nghĩ tới khi đề cập về thư điện tử.

với sự tăng trưởng của kỹ thuật truyền thông tiên tiến, 1 dòng tên mang thể được lan truyền trên khắp thế giới trong vòng một thời gian ngắn, giống như anh mõ chuyên thông báo tin tức trong những làng xóm ngày xưa. Nhưng hiện tại, vai trò của anh mõ này được đảm nhiệm bởi người mua, 1 nguồn lan truyền tin tức đáng tin cậy trong thế giới nhiễu loạn thông tin hiện tại. Satjiv Chahil, một chuyên gia marketing của Sony, đã tận dụng kênh thông tin "anh mõ" này rất thành công để giới thiệu máy tính xách tay của Sony. Trước khi sản phẩm mới chính thức ra mắt, ông liên lạc mang các người nức tiếng và mang ảnh hưởng trong giới khoa học thông tin và đề nghị họ sử dụng thử máy tính của mình trước tiên. Điều này hơi dễ vì ông quen biết những người này và lời yêu cầu cũng cực kỳ hấp dẫn. Kết quả là một lô những máy tính mới được chuyển tới tay "đúng người" và những người nức tiếng trong giới kỹ thuật thông tin này lập tức thu hút sự quan tâm cho loại máy tính mới tại tất cả nơi họ tới.

Amazon.com được ra đời năm 1995 và nhanh chóng trở nên một trong những web nức tiếng nhất trong vòng 2 năm. những lời truyền tai, quan hệ công chúng, những chiến dịch lôi kéo sự lưu ý, và các tiện ích hoàn hảo dành cho người tiêu dùng đã giúp công ty thành lập mà không phải nên PR.

Apple thì trở thành nổi tiếng chỉ bằng một quảng bá sáng tạo: một phụ nữ tóc vàng chạy và ném loại búa vào màn hình tại trận đấu bong đá Mỹ. PR thú vị này đã làm cho các cổ động viên hết sức thích thú. Sau ấy, nó được chiếu đi chiếu lại bởi các kênh truyền hình thể thao mà không hề trả bất cứ tiền quảng cáo nào và đây là bước khởi đầu thấp cho công ty tung ra chiếc sản phẩm Mac. Apple còn sử dụng rộng rãi bí quyết PR thương rất sáng tạo ko kể việc quảng bá trên truyền hình. Họ bọc ghế tại sân vận động Super Bowl sở hữu miếng bọc ghế với in nhãn hàng Apple để tất cả hầu hết người mang thể thấy logo của công ty lúc camera quay cảnh khán đài trước trận đấu.

Tóm lại, thương hiệu nói chung đúng là bắt buộc thời gian để xây dựng, nhưng có nhãn hiệu thời khoa học cao, khoảng thời gian này có thể chỉ còn tính bằng giây. các nhà kinh doanh và cả các nhà đầu tư mạo hiểm ngày nay cũng nhận ra tầm quan trọng của thành lập và sẵn sàng trả đa dạng tiền cho công việc này và làm cho càng nhanh càng phải chăng. Họ biết rằng một nhãn hiệu nức danh cũng đồng nghĩa với giá trị IPO cao. giả dụ ta sở hữu cách thành lập nhanh chóng, tại sao ko bắt đầu ngay?

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Thắng lợi nhờ chiến lược tạo lĩnh vực mới

Để chiến thắng trên thị trường và phát triển thuận lợi, điều bạn phải làm cho ko phải là được các bạn sử dụng rộng rãi hơn đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực mang sẵn.

>>>Xem thêm: dịch vụ thiết kế logo

Thay vào đó, bạn buộc phải tạo ra những sản phẩm đủ mới mẻ, sáng tạo để chính bản thân nó phát triển thành 1 lĩnh vực hoàn toàn mới (hoặc lĩnh vực con mới – subcategory) nơi đối thủ khó khăn không còn phù hợp nữa. có rất nhiều nhãn hiệu xe ô tô đã làm được điều này như Jeep, Ford Thunderbird, Ford Mustang, VW bug, Pontiac Firebird, Dodge Caravan và Plymouth Voyager, Lexus LS 400, Mazda Miata, Saturn, Prius, Minicooper, Nano, Enterprise Rent-A-Car và Zipcar. Hai ví dụ dưới đây sẽ giúp chúng ta sở hữu cái nhìn cụ thể hơn về những thương hiệu đã thành công lúc tạo nên 1 lĩnh vực con mới và những gì chúng ta mang thể học được từ ấy.

Xe minivan của Chrysler ra mắt lần trước tiên vào năm 1982 sở hữu 2 mẫu Plymouth Voyager và Dodge Caravan, với 200,000 xe được bán trong năm thứ nhất và đến nay, con số này là 12 triệu xe. phổ biến năm trước đó, ý tưởng về 1 cái xe tải nhỏ dành cho gia đình, vừa đa dạng vừa tha hồ được đề xuất lần thứ 1 bởi Lee Iacocca, khi ấy là chủ tịch hãng Ford. Tuy nhiên ý tưởng này bị Henry Ford gạt đi, 1 phần vì hãng Ford còn thiếu cái xe có dẫn động trước và bởi vì hãng này vẫn còn siêu thành công với cái xe station wagon. Thời cơ cũng tới có Iacocca lúc ông vươn lên là CEO của Chrysler sau khi bị Ford sa thải. khi đấy Chrysler vừa giới thiệu mẫu xe dẫn động trước, chưa với loại xe station wagon nào và đang gặp khủng hoảng tài chính – 1 chiếc xe mới là điều bắt cần mang.

Chrysler sau ấy sở hữu 16 năm tròn không gặp buộc phải đối thủ đáng gờm nào. Sau lúc đi tiên phong sở hữu ý tưởng minivan, họ tiếp tục cải tiến và đồng thời thay đổi cả định nghĩa về chiếc minivan lúc giới thiệu động cơ 4 bánh chủ động năm 1990 và cửa lùa bên phía tài xế năm 1995. Chính vì vậy Chrysler trở thành mục tiêu di động, chẳng phải dễ bắt kịp. Hơn nữa, các đối thủ của hãng đang bận rộn sở hữu đa dạng để ý khác. Trong các năm 1980, Ford còn phải lo cho mẫu F-10 và Taurus, Toyota đang dốc sức vào dự án Lexus còn GM thì mải vung tiền cho Saturn, sản xuất robot (thường thất bại), hàng không và những công ty phần mềm. Điều thú vị là khi Ford giới thiệu loại minivan vào thị trường Anh, mẫu xe này được định vị như tiện nghi "thượng hạng" mang giới doanh nhân, vì đây chính là mục tiêu chính cho xe trong khung giá này (khi xe dành cho nhân viên được nhận khuyến mãi về thuế thu nhập ở Anh).

Kế đến, chúng ta mang Enterprise rent-a-car, khởi nghiệp năm 1962 mang 17 cái xe cho thuê ở vùng St. Louis và ý tưởng buôn bán dựa trên nhu cầu cần xe di chuyển của người dùng trong khi họ chờ sửa xe. Công việc marketing tiến triển tốt đẹp, số lượng xe đã lên tới sắp một triệu, 65,000 nhân viên và một mô hình và chiến lược cho thuê xe hoàn toàn khác so mang Hertz, Avis và đa dạng hãng khác. Enterprise đã thật sự qua mặt Hertz về doanh số trong giữa thập niên 90 và năm 2008, doanh số của hãng là 10.1 tỉ USD so vố 6.7 tỉ của Hertz, chưa nói mức lợi nhuận cũng vượt xa.

Vẫn được quản lý và vận hành bởi gia đình sáng lập, Enterprise tới nay đã có 35 năm hoạt động sở hữu rất ít khó khăn. Cũng như Chrysler, hãng ko dừng cải tiến và hoàn thiện các dịch vụ cũng như nhận định lĩnh vực con mà mình đang hoạt động. Enterprise mang đến dịch vụ phải chăng có cam kết "We'll pick you up" (Chúng tôi sẽ đến đón bạn), chuẩn mực tương tác với các bạn cao, và mạng lưới bao phủ rộng khắp - 90% người Mỹ sống trong phạm vi 15 dặm sắp một cửa hàng của Enterprise. Hãng cũng tận dụng ưu điểm chi phí lúc hạn chế các địa điểm gần sân bay, chiến lược giá cạnh tranh và uy tín dịch vụ hoàn hảo. Enterprise cũng vạch ra lĩnh vực con cho các đối tác. có doanh nghiệp bảo hiểm và hãng sửa xe,Enterprise phân phối hệ thống ARMS (Automated Rental Management System) mang giao diện điện tử giúp xử lý các đơn đặt hàng, hóa đơn, thanh toán qua đấy việc giao dịch có Enterprise được dễ dàng và thuận lợi hơn. mang các công ty, Enterprise cung ứng dịch vụ quản lý đội xe công. Trong suốt thời gian dài này, Hertz, Avis và những doanh nghiệp cho thuê xe khác chỉ tập trung vào nhóm các bạn thương gia số đông và mang đến phổ biến lợi nhuận hơn.

Hai tình huống trên đem lại cho chúng ta ba bài học về việc tạo ra những lĩnh vực sản phẩm/dịch vụ mới.

Tầm nhìn

1 tầm nhìn chiến lược thể hiện nhu cầu thực sự chưa được đáp ứng và cam kết của một CEO tận tâm là điều thiết yếu. bởi vậy, bạn bắt buộc xác định đúng đối tượng quý khách và tạo ra giá trị thực sự khác biệt, ý nghĩa và mang thể thực hiện được. Cả Chrysler và Enterprise đã biến tầm nhìn của mình thành hiện thực nhờ sự hỗ trợ hết mình từ CEO.

Quản lý lĩnh vực sản phẩm/dịch vụ mới

những chuyên gia tiếp thị luôn chú trọng mục tiêu làm và quản lý nhãn hàng. Điều quan trọng ở đây là quản lý hình ảnh và sự quan tâm của khách hàng đối có lĩnh vực mới. nhãn hàng đôi lúc cũng nên bản sắc đa dạng, tương tự, các lĩnh vực mới cũng thế, như chiếc minivan chuyển hướng sang khách hàng doanh nghiệp ở Anh là 1 ví dụ. Enterprise cũng tạo ra rộng rãi nhận định khác nhau về lĩnh vực hoạt động của mình cho từng đối tượng như người lái xe, công ty bảo hiểm và các hãng xe.

Mục tiêu di động

Điều tiếp theo bạn phải để thành công có chiến lược này là sự sẵn sàng và khả năng tạo ra các rào cản mới cho đối thủ để họ nhận ra rằng thách thức và nguồn đầu tư sẽ ko giới hạn gia tăng và cơ hội thành công của họ sẽ siêu rẻ. Bruce Henderson, nhà sáng lập BCG từng nói rằng quy luật chiến lược căn bản là làm cho đối thủ khó khăn từ bỏ ý tưởng đầu tư vào các lĩnh vực mà bạn chuẩn bị đầu tư đa dạng nhất.

Thiết kếthương hiệu buộc phải người quản lý?

thương hiệu là gì? Nó cũng giống như 1 con người, với tính cách, đặc biệt, sở thích, và cả cuộc sống nữa. Ngày xưa lúc bạn còn trẻ, bạn có thể mặc quần jean và áo pull, uống bia hơi. Nhưng ngày nay, khi bạn đã đứng tuổi và thành công, bạn sẽ mặc vest, uống rượu tây. Mặc dù tính chất cơ bản của bạn vẫn ko đổi nhưng bề ngoài của bạn đã thay đổi cho ưa thích với môi trường mới.

>>>Xem thêm: thiết kế logo

một nhãn hiệu cũng mang thể thay đổi diện mạo, sở hữu thể xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau, trên những sản phẩm khác nhau nhưng giá trị cốt lõi và tính phương pháp của nó vẫn nên ko được thay đổi. 1 nhãn hiệu, trong mối quan hệ sở hữu các bạn, cần được người dùng coi như bạn bè vậy. sở hữu thể rất nhiều người biết tên bạn, nhưng họ sẽ ko đi chơi mang bạn. Nhưng giả dụ bạn có nhiều bạn bè thì chắc chắn họ sẽ vui vẻ nói chuyện, đi chơi sở hữu bạn. khi bạn phạm sai lầm, họ vẫn có thể bỏ qua. Họ cũng sẽ không xoi mói các sai sót của một người bạn. 1 nhãn hàng trong mối quan hệ với khách hàng cũng nên như là sở hữu người bạn vậy.

Trong tình huống này, hầu hết việc sẽ nằm ko kể tầm kiểm soát của 1 nhà quản lý nhãn hiệu thông thường, và một người nào đấy nên đứng ra thống nhất các thương hiệu này lại và hướng dẫn hầu hết hoạt động để hướng về 1 mục đích chung, giống như một người chăn cừu. do đó, chức năng của một nhà quản lý nhãn hiệu hiện nay bắt buộc giống như là 1 người "chăn dắt các thương hiệu", giữ sự thống nhất của những nhãn hiệu và hướng mọi hoạt động đến cộng một mục tiêu. Công việc cơ bản của một người "chăn dắt thương hiệu" là nên định nghĩa được cốt lõi của nhãn hàng chứ chẳng phải là hình thức, bắt mắt, những điều thay đổi thường xuyên theo thời gian và dung tích địa lý. Người chăn dắt nhãn hiệu phải tạo ra sự thống nhất trong các thương hiệu thành viên và những đối tác cộng tham gia kinh doanh để tạo ra 1 thương hiệu thống nhất với những giá trị và tính phương pháp rõ ràng giống như một thực thể sống thì mới tạo ra thành công được.

Các thành tố chính tạo nên sức khỏe nhãn hàng

Dưới đây là 5 thành tố chính tạo buộc phải sức khỏe thương hiệu và sở hữu thể được tiêu dùng như hệ thống đo lường chính xác.

Dù những khía cạnh này đã từng được nhắc đến trong sách dạy quản lý, nhưng đến nay chúng vẫn chưa được đặt trong một tương quan cụ thể, kiểm chứng qua dữ liệu thực nghiệm và được xem như 1 hệ thống chỉ số đo lường trong quản lý nhãn hàng. Trong mô hình tổng thể dưới đây, những yếu tố này tạo thành điểm quy chuẩn cho những nhà quản lý và đầu tư khi cần đánh giá và hoạch định nhãn hàng.

Mỗi yếu tố thể hiện một yếu tố đo lường cụ thể:

Khả năng lãnh đạo (leadership) đo lường mức độ bao phủ thị trường, danh tiếng và độ khả dụng, và giúp trả lời câu hỏi: Người dùng sở hữu xem nhãn hàng sẽ luôn với mặt để chuyên dụng cho họ trong bây giờ và tương lai hay không?

Rủi ro (liabilities) đo lường những khuyết điểm của nhãn hàng, hoặc những liên tưởng tiêu cực về nhãn hiệu và sự do dự của quý khách. Điều gì ngăn cản quý khách gắn bó sở hữu thương hiệu hoặc khước từ nó?

ưu thế (attractiveness) đo lường mức độ nhận định tốt đẹp về nhãn hiệu và trả lời cho câu hỏi: nhãn hiệu có lôi kéo được khách hàng hay không?

Tính khác biệt (distinctiveness) đo lường mức độ tương thích trong cảm nhận về thương hiệu – liệu nhãn hàng có thật sự khác biệt với đối thủ trong tâm trí quý khách hay không?

Sự hài lòng (satisfaction) là chỉ số đo lường đảm bảo so sở hữu kỳ vọng của quý khách, và trả lời câu hỏi: các bạn mang hài lòng sở hữu trải nghiệm của họ về nhãn hiệu hay ko.

>>>Xem thêm: bộ nhận diện thương hiệu

những yếu tố này với shop lẫn nhau trong một mức độ nhất định như sau:

- Sự hài lòng là tâm điểm gắn kết toàn bộ những khía cạnh khác và sở hữu mức độ tương quan cao nhất. Ảnh hưởng áp đảo của nó thể hiện tầm quan trọng của trải nghiệm khách hàng đối mang sức khỏe nhãn hàng. Điều này cũng cho thấy công ty phải vượt qua lối mòn tư duy về hình ảnh và sản phẩm khi thành lập.

- điểm cộng là chi tiết gắn bó chặt chẽ nhất tới sự hài lòng chứ chẳng phải với khả năng lãnh đạo. bởi vậy, trải nghiệm của quý khách sở hữu nhãn hiệu chính là thời điểm các cảm nhận và liên tưởng tích cực được hình thành. với nhiều thế mạnh và được cảm nhận tích cực còn giúp bảo vệ nhãn hiệu khỏi những rủi ro.

- Tính khác biệt cũng liên quan tới sự hài lòng và điểm mạnh, nhưng không ảnh hưởng đến khả năng lãnh đạo. Điều này cho thấy, khác biệt là thước đo sự ưa thích của nhãn hàng ở mức độ cá nhân hơn ở tầm vực doanh nghiệp.

- Khả năng lãnh đạo cũng liên quan tới sự hài lòng và thế mạnh, một lần nữa khẳng định sức khỏe nhãn hiệu ko chỉ được tạo thành bởi độ bao phủ thị trường hay chất lượng. Khả năng lãnh đạo không liên quan tới sự khác biệt và rủi ro. Chỉ mức độ hiện diện thôi vẫn chưa đủ để tạo thêm sự độc đáo cảm nhận hay bù đắp cho những rủi ro với thể xảy ra.

Lầm tưởng về việc nhãn hiệu được thiết kế trong một thời gian dài

Người ta thường lấy những ví dụ về các nhãn hàng nổi danh như Ivory Soap mang tuổi đời 125 năm; Tide mang tuổi đời 50; Crest thì 40. nhãn hàng nổi tiếng như Apple có tuổi đời 20 thì được coi là trẻ và hiếm hoi trong thế giới nhãn hiệu nức danh. Điều đáng quan tâm là Steve Jobs và cộng sự hoàn thành việc xây dựng thương hiệu Apple thực sự chỉ trong vài năm đầu khởi nghiệp lúc họ cho ra mắt chiếc máy Macintosh năm 1984. trường hợp nhìn kỹ hơn, ta sẽ thấy một loạt những ví dụ khác về sự phát triển cực nhanh của một số nhãn hiệu. những năm 1980, American Online được 80% dân cư ở Mỹ nói tới khi nói về thư điện tử. Tuy nhiên, chỉ trong 1 vài năm, Yahoo! đã là nhãn hiệu trước tiên người ta nghĩ đến khi nói về thư điện tử.

>>>Xem thêm: dịch vụ thiết kế logo

sở hữu sự tăng trưởng của khoa học truyền thông hiện đại, một mẫu tên với thể được lan truyền trên khắp thế giới trong vòng một thời gian ngắn, giống như anh mõ chuyên thông báo tin tức trong các làng xóm ngày xưa. Nhưng bây giờ, vai trò của anh mõ này được đảm nhiệm bởi các bạn, 1 nguồn lan truyền tin tức đáng tin cậy trong thế giới nhiễu loạn thông tin hiện tại. Satjiv Chahil, một chuyên gia marketing của Sony, đã tận dụng kênh thông tin "anh mõ" này cực kỳ thành công để giới thiệu máy tính xách tay của Sony. Trước lúc sản phẩm mới chính thức ra mắt, ông liên lạc mang các người nức tiếng và với ảnh hưởng trong giới kỹ thuật thông tin và bắt buộc họ sử dụng thử máy tính của mình thứ 1. Điều này hơi dễ vì ông quen biết các người này và lời yêu cầu cũng cực kỳ hấp dẫn. Kết quả là 1 lô các máy tính mới được chuyển tới tay "đúng người" và những người nổi danh trong giới kỹ thuật thông tin này lập tức thu hút sự lưu ý cho dòng máy tính mới tại hầu hết nơi họ tới.

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

Các ví dụ về sai lầm khi làm nhãn hàng

Người ta thường nghĩ rằng quan hệ người mua chỉ dựa trên một sản phẩm cụ thể chứ ko phải dựa trên công ty phân phối ra nó. Minh chứng cho điều này là với hầu hết người biết đến nhãn hàng Downy, Crest nhưng chẳng mấy ai biết công ty cung ứng ra chúng là P&G.

>>Xem thêm: thiết kế logo

- Tài sản nhãn hiệu (đo bằng tài sản doanh nghiệp mang nhãn hiệu trừ đi tài sản công ty không mang nhãn hiệu đi kèm) càng ngày càng được xem như là 1 tài sản riêng biệt trong bản cân đối kế toán. Thực tế, quy tắc kế toán ở Anh cho phép điều này. Như Alfred King, giám đốc điều hành NAA (tương tự FASB ở Mỹ) đã nhận xét rằng: "Thương hiệu buộc phải được ghi nhận là một tài sản riêng biệt trong bản cân đối kế toán hơn là gộp chung trong tài khoản Goodwill".

- các chuyên gia tài chính ước lượng rằng nhãn hiệu thuốc lá Marlboro chiếm khoảng 40% giá trị của tập đoàn Phillip Morris, tức là khoảng 40 tỉ USD.

- ví như bạn có thời gian, bạn với thể tìm câu trả lời cho câu hỏi: nếu bạn chia doanh nghiệp Coca Cola ra khiến hai phần – phần thứ 1 bao gồm hầu hết nhà xưởng, máy móc, chai lọ, xe vận chuyển, và toàn bộ những tài sản hữu hình khác và phần còn lại bao gồm nhãn hàng Coca Cola, logo, và công thức bí mật của họ - giá trị của mỗi phần là bao nhiêu?

- Ta sở hữu thể lấy ví dụ mới hơn về công ty Amazon.com. Trong sáu tháng đầu 1998, công ty sở hữu doanh thu 204 triệu USD và thua lỗ 30 triệu USD nhưng giá trị thị trường của công ty là 5 tỉ USD. Dĩ nhiên một phần giá trị này đến từ cơn sốt web, sự lạc quan thái quá của nhà đầu tư, nhưng đa số là đến từ nhãn hàng.

Bạn có thể chọn thấy 1 loạt ví dụ khác như Dell Computer, Intel, Mircosoft, Sony, Hewlett-Packard, IBM, Apple,…, sở hữu phần lới giá trị tài chính cho nhà đầu tư đến từ nhãn hàng. nếu nhãn hàng càng ngày càng đóng vai trò tài chính quan trọng như vậy thì có lẽ đã tới lúc ta cần coi nó như là 1 khái niệm về tài chính thay vì một khái niệm thuần túy kinh doanh.

ngoại trừ tác động của toàn cầu hóa, tình hình còn phức tạp hơn khi xuất hiện các hình thức đối tác chiến lược. những hình thức này với thể là cộng tác phát triển kỹ thuật như Intel và HP, cộng tác marketing như ZDNet và MSNBC, hay chương trình Intel Inside của Intel, hay chương trình tương tự của Cisco. ko kể ra, các doanh nghiệp khác nhau với thể cộng góp vốn và kỹ thuật để tạo thành một liên doanh mới. một ví dụ khác là công ty điện thoại vệ tinh Globalstar sở hữu một phần ba cổ phần thuộc về Loral Space and Communications, chuyên phân phối vệ tinh và công nghệ liên quan. khoa học viễn thông thì được phụ trách bởi AirTouch, France Telecom, và Vodafone. Qualcomm thì phụ trách phân phối điện thoại và các trung tâm điều khiển. Trong mô hình này, khách hàng sẽ dùng dịch vụ của mọi các doanh nghiệp thành viên và việc quản lý nhãn hiệu sẽ vô cùng khó khăn cho từng công ty. Hệ thống những nhãn hiệu này sẽ được quản lý ra sao? có bốn, năm thương hiệu cộng góp sức tạo ra sản phẩm dịch vụ, nhãn hiệu nào sẽ xuất hiện trước và tạo mối liên kết mang khách hàng? Ai sẽ trả tiền để tạo dựng nhãn hàng mới? Ai sẽ được đa dạng lợi ích cuối cộng hơn?

Nghệ thuật thiết kế logo chữ số

Liệu tên nhãn hàng có thể kèm chữ số không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể. Chữ số là 1 biểu tượng mạnh giúp ta hiểu ngay mà không phải cần đọc. Chẳng hạn, lúc bạn thấy số "1" thì não bạn sẽ tự động chuyển tải thành chữ "một". Điều này cũng tạo 1 ưu điểm dễ nhớ hơn trong một thế giới với vô vàng thương hiệu.

Trong lĩnh vực làm logo, việc dùng các chữ số trong tên thương hiệu để tạo bắt buộc sự khác biệt của logo là một thủ thuật được đa dạng nhà thiết kế lưu ý.

các con số này không chỉ đơn giản là con số mà nó còn ẩn đựng những ý nghĩa khác. Ví dụ ý nghĩa của số "1" ko chỉ là con số đếm một,2,3 mà còn hàm ý "người dẫn đầu", "người nhiều năm kinh nghiệm nhất"…, và đây chính là ý nghĩa mà nhãn hàng muốn gửi gắm tới các bạn.

không tính ra, Con số mang thể dùng thay chữ nhằm giúp gia nâng cao tốc độ đọc và tránh diện tích cho một làm logo. 1 ví dụ là sở hữu tên nhãn hàng là "To Go" thì bạn với thể thay thế bằng "2go", sự thay thế này ko chỉ giúp tên nhãn hàng ngắn hơn mà còn gia tăng sự để ý.

với những ưu thế của chữ số thì việc ứng dụng sáng tạo của thiết kế logo sở hữu chữ số sẽ mang lại những hiệu ứng tích cực như sẽ giúp nhãn hiệu dễ nhớ và ấn tượng hơn.

Kĩ thuật làm logo chữ số

Liệu tên nhãn hàng với thể kèm chữ số không? Câu trả lời là hoàn toàn mang thể. Chữ số là một biểu tượng mạnh giúp ta hiểu ngay mà ko cần bắt buộc đọc. Chẳng hạn, lúc bạn thấy số "1" thì não bạn sẽ tự động chuyển tải thành chữ "một". Điều này cũng tạo một điểm mạnh dễ nhớ hơn trong 1 thế giới mang vô vàng nhãn hiệu.

Trong lĩnh vực làm logo, việc sử dụng những chữ số trong tên thương hiệu để tạo cần sự khác biệt của logo là 1 thủ thuật được nhiều nhà làm chú ý.

các con số này ko chỉ đơn thuần là con số mà nó còn ẩn cất những ý nghĩa khác. Ví dụ ý nghĩa của số "1" không chỉ là con số đếm một,2,3 mà còn hàm ý "người dẫn đầu", "người chuyên nghiệp nhất"…, và đây chính là ý nghĩa mà nhãn hàng muốn gửi gắm tới quý khách.

ko kể ra, Con số với thể tiêu dùng thay chữ nhằm giúp gia tăng tốc độ đọc và hạn chế khoảng trống cho một làm logo. 1 ví dụ là có tên nhãn hàng là "To Go" thì bạn có thể thay thế bằng "2go", sự thay thế này không chỉ giúp tên nhãn hiệu ngắn hơn mà còn gia tăng sự lưu ý.

có những ưu điểm của chữ số thì việc ứng dụng sáng tạo của làm logo có chữ số sẽ đem đến những hiệu ứng tích cực như sẽ giúp thương hiệu dễ nhớ và ấn tượng hơn.