Người ta thường nghĩ rằng quan hệ người mua chỉ dựa trên một sản phẩm cụ thể chứ ko phải dựa trên công ty phân phối ra nó. Minh chứng cho điều này là với hầu hết người biết đến nhãn hàng Downy, Crest nhưng chẳng mấy ai biết công ty cung ứng ra chúng là P&G.
>>Xem thêm: thiết kế logo
- Tài sản nhãn hiệu (đo bằng tài sản doanh nghiệp mang nhãn hiệu trừ đi tài sản công ty không mang nhãn hiệu đi kèm) càng ngày càng được xem như là 1 tài sản riêng biệt trong bản cân đối kế toán. Thực tế, quy tắc kế toán ở Anh cho phép điều này. Như Alfred King, giám đốc điều hành NAA (tương tự FASB ở Mỹ) đã nhận xét rằng: "Thương hiệu buộc phải được ghi nhận là một tài sản riêng biệt trong bản cân đối kế toán hơn là gộp chung trong tài khoản Goodwill".
- các chuyên gia tài chính ước lượng rằng nhãn hiệu thuốc lá Marlboro chiếm khoảng 40% giá trị của tập đoàn Phillip Morris, tức là khoảng 40 tỉ USD.
- ví như bạn có thời gian, bạn với thể tìm câu trả lời cho câu hỏi: nếu bạn chia doanh nghiệp Coca Cola ra khiến hai phần – phần thứ 1 bao gồm hầu hết nhà xưởng, máy móc, chai lọ, xe vận chuyển, và toàn bộ những tài sản hữu hình khác và phần còn lại bao gồm nhãn hàng Coca Cola, logo, và công thức bí mật của họ - giá trị của mỗi phần là bao nhiêu?
- Ta sở hữu thể lấy ví dụ mới hơn về công ty Amazon.com. Trong sáu tháng đầu 1998, công ty sở hữu doanh thu 204 triệu USD và thua lỗ 30 triệu USD nhưng giá trị thị trường của công ty là 5 tỉ USD. Dĩ nhiên một phần giá trị này đến từ cơn sốt web, sự lạc quan thái quá của nhà đầu tư, nhưng đa số là đến từ nhãn hàng.
Bạn có thể chọn thấy 1 loạt ví dụ khác như Dell Computer, Intel, Mircosoft, Sony, Hewlett-Packard, IBM, Apple,…, sở hữu phần lới giá trị tài chính cho nhà đầu tư đến từ nhãn hàng. nếu nhãn hàng càng ngày càng đóng vai trò tài chính quan trọng như vậy thì có lẽ đã tới lúc ta cần coi nó như là 1 khái niệm về tài chính thay vì một khái niệm thuần túy kinh doanh.
ngoại trừ tác động của toàn cầu hóa, tình hình còn phức tạp hơn khi xuất hiện các hình thức đối tác chiến lược. những hình thức này với thể là cộng tác phát triển kỹ thuật như Intel và HP, cộng tác marketing như ZDNet và MSNBC, hay chương trình Intel Inside của Intel, hay chương trình tương tự của Cisco. ko kể ra, các doanh nghiệp khác nhau với thể cộng góp vốn và kỹ thuật để tạo thành một liên doanh mới. một ví dụ khác là công ty điện thoại vệ tinh Globalstar sở hữu một phần ba cổ phần thuộc về Loral Space and Communications, chuyên phân phối vệ tinh và công nghệ liên quan. khoa học viễn thông thì được phụ trách bởi AirTouch, France Telecom, và Vodafone. Qualcomm thì phụ trách phân phối điện thoại và các trung tâm điều khiển. Trong mô hình này, khách hàng sẽ dùng dịch vụ của mọi các doanh nghiệp thành viên và việc quản lý nhãn hiệu sẽ vô cùng khó khăn cho từng công ty. Hệ thống những nhãn hiệu này sẽ được quản lý ra sao? có bốn, năm thương hiệu cộng góp sức tạo ra sản phẩm dịch vụ, nhãn hiệu nào sẽ xuất hiện trước và tạo mối liên kết mang khách hàng? Ai sẽ trả tiền để tạo dựng nhãn hàng mới? Ai sẽ được đa dạng lợi ích cuối cộng hơn?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét